Hiệp Khí Võ Đạo - "môn võ Hoàng tộc"


     Không như những môn võ khác, người tập phải ra sức đấm, đá đến toát mồ hôi, Aiki Budo trông như một điệu múa. Bộ pháp xoay vòng uyển chuyển như điệu luân vũ, người tập thư thái, nhẹ nhàng chẳng phải dùng đến sức mạnh…

     Những thông tin lý thú về thứ…“võ quý tộc” làm tôi hai lần cất công tới Trung tâm TDTT Q.1, nơi duy nhất ở Việt Nam có dạy Aiki Budo. Cả hai lần đều không gặp được vị huấn luyện viên, bù lại là may mắn bất ngờ diện kiến võ sư Lê vân Nhi – truyền nhân đầu tiên của Việt Nam, vừa từ Pháp trở về. Qua ông, lịch sử thăng trầm của môn võ này như được tái hiện…

Môn võ “hoàng tộc”
     Hiện tồn tại hai thuyết về sự ra đời của Aiki Budo. Thuyết thứ nhất cho môn võ này do hoàng thái tử Teijin – triều đại Seiwa (850 – 880) – sáng tạo. Tuy nhiên, theo võ sư Lê vân Nhi, Yoshimitsu Minamoto – hậu duệ đời thứ hai của Teijin – mới là ông tổ của môn võ mà thời đó còn gọi AikiJitsu Daito ryu (Hiệp khí thuật Đại Đông phái). Trong tiền bán thế kỷ thứ X, Minamoto – sứ quân hạt Takeda – là tay kiếm không có đối thủ và là nhà quân sự tài ba. Uy danh và tài cầm quân của ông khiến đối phương luôn khiếp sợ.

     Ở tuổi xế chiều, Minamoto luôn trăn trở: “một tay kiếm vô địch làm sao chiến đấu khi không có kiếm ?”. Ý tưởng này luôn đeo đuổi, buộc ông phải nghiên cứu phương pháp chiến đấu không cần tới vũ khí. Một hôm đang ngồi quán tưởng, ông nhận thấy không loài côn trùng nào thoát chết khi sa vào lưới nhện. Mạng nhện yếu ớt, mảnh như tơ nhưng ẩn chứa mối hiểm nguy tiềm tàng. Từ chứng nghiệm đó, ông sáng tạo thứ công phu chuyên “giăng bẫy“ để địch thủ như sa vào mạng nhện không lối thoát.

     Sự ra đời của AikiJitsu như một cuộc cách mạng đối với võ học xứ Phù tang. Nguyên lý môn võ này hoàn toàn trái ngược quan niệm kinh điển, tận dụng sức mạnh tối đa và tấn công phủ đầu, chiếm thế thượng phong. Thứ võ mềm mại như điệu múa này không có đòn tấn công, cũng không trực tiếp đối đầu với đòn công của đối phương. Bộ pháp hình vòng cung để tránh đòn và bám sát địch thủ như hình với bóng. Bằng cách này, bất kỳ vị trí nào cũng làm đối phương mất tập trung và mất thăng bằng rồi bị khóa chặt như con mồi. Đặc biệt, cầm nã thủ pháp chuyên phản công vào những yếu huyệt, người tập chỉ ra đòn bằng khí lực nên chiêu thức trông nhẹ nhàng, khinh linh mà ảo diệu.

     Năm 1575, Kunitsugu Takeda có chút cải cách và đổi tên môn võ là Tadoma Aizu. Sau này, Tadoma Aizu phân hóa ra hai nhánh cách tân và bảo thủ. Một người cháu – truyền nhân của dòng họ Takeda – chủ trương giữ gìn tính truyền thống và đổi lại tên môn võ là AikiJitsu. Trong khi Taigo lại bổ sung, đổi mới và đưa môn võ này ra ngoài khuôn khổ hoàng tộc với tên gọi Daito ryu. Đến năm 1898, Sogaku Takeda kết hợp kỹ thuật của AikiJitsu Daito để trở thành Aiki Budo. Một trong số những học trò ưu tú của Sogaku Takeda là Morihei Uyeshiba (1882 – 1969), tổ sư Aikido sau này. Năm 1930, Minoru Mochizuki được sư phụ Gojiro Kano – tổ sư Judo – gởi sang Kobukan học AikiJitsu với Uyeshiba.

     Sau này, Mochizuki khai sinh trường phái Yoseikan Budo, dạy cả Judo, Kendo, Aikido, Iaido, Kobudo, AikiJitsu, Katori Shinto ryu, Tenshin Shoden, Kempo, Karatedo. Ông được IMAF phong thập đẳng và danh hiệu đại sư.

     Hiện nay tại Nhật, ngoài AikiJitsu của Yoseikan (Dưỡng chính quán), môn võ này được lưu truyền với các nhánh Aiki Budo, Daito ryu… Nhiều nỗ lực thống nhất các lưu phái bất thành bởi rào cản định kiến và quan điểm không đồng nhất.


Bửu Thông